/           Nghề Luật, Tiêu điểm, Vấn đề Pháp lý /           02 Jun 2016
Một xã  hội không thể có tự do nếu ngôn luận của người dân không được tự do. Tất  cả các bản hiến pháp văn minh, các tuyên ngôn nhân quyền, các công ước  quốc tế về quyền con người đều dành vị trí hàng đầu trang trọng cho  quyền tự do ngôn luận như một sự ghi nhận thành quả đấu tranh của loài  người.
Từ chén thuốc độc của Socrates đến bài thơ của Böhmermann và thuyết gây hại
Không ai biết chắc từ đâu mà con người  dám quay lại bản ngã để nói với nhà cầm quyền rằng mình có quyền ngôn  luận tự do. Có lẽ nó bắt đầu tư chén thuốc độc mà Socrates chấp nhận  uống để đổi lấy quyền được nói cho đến giây phút cuối cùng. Cho đến  những người vô danh khác đã chấp nhận mang tội phản nghịch để được ngôn  luận chống lại sự bất công. Ngày nay, con người đối mặt với một cuộc  chiến khác liên quan đến ngôn luận, đó là chúng ta với tư cách một cộng  đồng phải tôn trọng sự tự do của những ngôn luận mà chúng ta không  thích. Những ngôn luận đó có thể có tính khiêu khích, bẩn thỉu hoặc công  kích. Câu hỏi đặt ra rằng liệu pháp luật có nên khoan dung và bảo vệ  các ngôn luận không đáng khoan dung?
Mỗi quốc gia khác nhau sẽ có câu trả lời  khác nhau cho câu hỏi ở trên. Mới đây nhất, chính phủ Đức đã từ chối sự  tự do của ngôn luận phỉ báng một nguyên thủ quốc gia nước ngoài khi  quyết định cho phép truy tố một nghệ sĩ hài. Trong vụ việc đang diễn ra  được biết với cái tên vụ áp-phe Böhmermann (Böhmermann affair), một clip  nhạc parody có tên Erdowie, Erdowo, Erdoğan được phát sóng trong chương  trình hài châm biếm extra 3 của đài ARD trong đó Böhmermann công khai  chỉ trích sự vi phạm nhân quyền của Thổ Nhĩ Kỳ trong khi nhẹ tay với  “huynh đệ ISIL” của họ.
Tức giận trước sự phỉ báng này, Thổ Nhĩ  Kỳ đã triệu hồi đại sứ Đức và yêu cầu nước này phải truy tố Böhmermann.  Trong một quyết định cực kỳ gây tranh cãi, Thủ tướng Angela Merkel đã  cho phép truy tố Böhmermann theo Điều 103 của Bộ luật hình sự Đức chống  việc phỉ báng các đại diện của một quốc gia ngoại quốc. Điều luật này  tồn tại từ thế kỷ 19 với mục tiêu là để bảo vệ quan hệ quốc tế dễ tổn  thương tại thời kỳ đó. Trớ trêu thay, chính bà Merkel cũng thừa nhận  điều luật kể trên sẽ bị bãi bỏ vào năm 2018. Nhiều người chỉ trích vụ  kiện này là chống lại quyền tự do ngôn luận, tự do thể hiện đặc biệt  trong lĩnh vực nghệ thuật. Chưa biết số phận của Böhmermann sẽ ra sao  nhưng chính quyền của Merkel đang bị chỉ trích vì quyết định của mình.
 Bà Angela Merkel đã gây ra tranh cãi khi để một vụ việc liên quan đến tự do ngôn luận bị khởi tố
Ở nhiều quốc gia khác, hình tượng nhà  vua hay biểu tượng quốc gia hoặc chính sách Nhà nước, đảng cầm quyền  được bảo vệ tuyệt đối. Một số quốc gia thường lựa chọn tiêu chí gây hại  để phán xét xem một ngôn luận có nên được tự do hay không. Tiêu chí gây  hại xuất phát từ diễn ngôn rằng quyền tự do của một người không được  phép xâm phạm quyền và lợi ích của người khác. Kì thực, tiêu chí này  tưởng như rõ ràng nhưng lại được sử dụng khá tùy tiện vì các chính quyền  đôi khi bỏ qua những xâm phạm của chính quyền với người dân nhưng lại  rất mạnh tay khi thấy có dấu hiệu người dân xâm phạm chính quyền.
Hơn nữa, tiêu chí này cũng là rất khắt  khe vì trong sự giao lưu giữa các quyền với nhau, chắc chắn không thể  tránh khỏi những mâu thuẫn lợi ích. Thiết nghĩ, pháp luật công bằng  không nên né tránh mâu thuẫn mà phải được tạo ra để giải quyết các mâu  thuẫn đó. Singapore cho chúng ta một ví dụ về cách giải quyết mâu thuẫn  chưa hẳn là hợp lý nhưng hoàn toàn hợp pháp – đó là thay vì Nhà nước  đứng ra để truy tố hình sự chống lại một ngôn luận, luật pháp nước này  cho phép ngôn luận khá tự do tuy nhiên người phát ngôn phải chịu trách  nhiệm dân sự, đền bù thiệt hại cho người mà phát ngôn đó nhắm vào và  chứng minh được sự gây hại bất hợp pháp trong các vụ kiện phỉ báng. Đây  là một cách làm đáng tham khảo cho các chính quyền vẫn một mực xem tiêu  chí gây hại là kim chỉ nan để hạn chế ngôn luận của một ai đó.
Bởi lẽ, một vụ án hình sự chỉ có chức  năng trừng phạt chứ không thực sự đền bù cho người bị hại. Tại Trung  Quốc, những vụ án liên quan đến tuyên truyền chống Nhà nước cũng xuất  phát từ việc áp dụng tiêu chí gây hại này. Điều thú vị là mặc dù các  thẩm phán thường cho rằng phát ngôn của một ai đó gây ảnh hưởng đến uy  tín của chính quyền nhưng bản thân chính quyền lại không phải là một  nguyên đơn dân sự để chứng minh thiệt hại của bản thân và đòi bồi  thường. Theo thiển ý của tác giả, truy tố hình sự không phải là một giải  pháp trọn vẹn nếu như các chính quyền muốn áp dụng tiêu chí gây hại để  hạn chế ngôn luận tự do.
Lựa chọn khác của Hoa Kỳ
Tuy nhiên, ở Hoa Kỳ, các thẩm phán Tối  cao Pháp viện lại đưa ra một tiêu chí khác để xác định khi nào thì một  ngôn luận cần phải bị hạn chế. Trong vụ án Schenck v. Hoa Kỳ, 249 U.S 47  (1919), cố thẩm phán Oliver Wendell Holmes, Jr. đã đưa bài test “nguy  hiểm rõ ràng và hiện hữu” (clear and present danger). Theo bài test này  thì chỉ khi nào chính quyền có thể chứng minh được rằng phát ngôn bị  điều tra sẽ dẫn đến một nguy hiểm rõ ràng và hiện hữu thì các biện pháp  ngăn chặn mới có thể được áp dụng. Điều này có nghĩa là chính quyền  không được ngăn chặn một phát ngôn chỉ vì chính quyền không thích nó,  hoặc chính quyền nghĩ rằng nó sẽ gây ra nguy hiểm (nhưng không rõ ràng),  hoặc nghĩ rằng nguy hiểm đó sẽ xảy ra trong tương lai (không hiện hữu).  Thẩm phán Holmes ví dụ việc “hô cháy trong một nhà hát đông khách”  chính là một nguy hiểm rõ ràng và hiện hữu và cần bị ngăn chặn. Tuy  nhiên, các phát ngôn cho dù là chống chính quyền có thể gây tổn hại cho  uy tín của chính quyền nhưng nó vẫn không đáng bị ngăn chặn.
Vì sao Tối cao Pháp viện lại coi nhẹ khả  năng chính quyền bị mất uy tín như vậy? Một thẩm phán nổi tiếng khác là  Louis Brandeis trong ý kiến của mình trong vụ Whiney v. California, 274  U.S. 357 (1927) cho rằng ngôn luận thì phải được đối đáp bằng ngôn luận  chứ không phải bằng vũ lực, trừ phi thời gian và hoàn cảnh không cho  phép. Thẩm phán Brandeis cho rằng “giải pháp cho một ngôn luận tồi tệ là  một ngôn luận tốt” và chỉ khi nào sự nguy hiểm nó quá rõ ràng, quá hiện  hữu đến mức việc tranh luận sẽ khiến cho sự nguy hiểm không thể cứu vãn  thì chính quyền mới được phép ngăn cản ngôn luận bằng vũ lực.
Các quan điểm này tạo tiền đề cho quyền  tự do ngôn luận ở Hoa Kỳ. Các tiêu chí kể trên được đưa lên tầm cao mới  trong vụ án Brandenburg v. Ohio, 395 U.S. 444 (1969). Lần này, Tối cao  Pháp viện Hoa Kỳ làm rõ hơn bài test của Thẩm phán Holmes bằng việc đưa  ra tiêu chí “hành vi vi phạm pháp luật sắp xảy ra” (imminent lawless  action) để hạn chế ngôn luận. Thật ra từ “imminent” là một từ khó dịch  vì nó vừa diễn tả tính tất nhiên sẽ xảy ra của một vấn đề, vừa diễn tả  tính thức thời của nó. Trong cụm imminent lawless action, một hành vi vi  phạm pháp luật được coi là imminent nếu như chính quyền chứng minh được  rằng nó sẽ xảy ra, đương nhiên xảy ra, và thời gian nó xảy ra sẽ là  ngay tức thời hoặc không lâu sau đó.
Trong một vụ án sau đó là Hess v.  Indiana, 414 U.S. 105 (1973) khi nguyên đơn là Hess bị cảnh sát Indiana  bắt vì tham gia biểu tình phản chiến tại Việt Nam. Trong cuộc biểu tình,  Hess lớn tiếng tuyên bố rằng sinh viên sẽ lại chiếm đóng đường phố và  điều này bị coi là gây rối trật tự công cộng ở Indiana. Tuy nhiên, Tối  cao Pháp viện thì lại cho rằng việc Hess làm không gì hơn là “biện hộ  cho một hành vi vi phạm pháp luật có thể xảy ra trong một khoảng thời  gian vô định trong tương lai” và do đó không phải là một “hành vi vi  phạm pháp luật sắp xảy ra.”
Như vậy, có thể thấy ở Mỹ, bản thân ngôn  luận không phải là một hành vi vi phạm pháp luật mà tòa án chú trọng  vào những gì ngôn luận có thể gây ra. Quan điểm này khác cơ bản với một  số quốc gia cho rằng có những ngôn luận đương nhiên bị coi là vi phạm  pháp luật.
Mỗi quốc gia có quyền lựa chọn con đường khác nhau và cách thức khác  nhau để đảm bảo và thúc đẩy nhân quyền. Xin lưu ý, không ai nói rằng mỗi  quốc gia được phép hiểu khác và áp đặt các ngăn chặn về nhân quyền mà  trái lại, họ có nghĩa vụ thúc đẩy các quyền con người đó. Quyền tự do  ngôn luận cũng như các quyền khác được toàn nhân loại đấu tranh để đạt  được chứ không phải từ trên trời rơi xuống và do đó, không ai có thể nói  rằng một dân tộc được phép có quyền này còn dân tộc khác thì không.  Thúc đẩy quyền con người không xuất phát từ việc đưa ra các hạn chế mà  phải xuất phát từ sự khuyến khích phát ngôn và từ đó sửa sai.
Đăng nhận xét