Hồ sơ hành chính 10 - Bà Hoàng Thị Ngoan


1.1 Kế hoạch xét hỏi
Hỏi người bị kiện 
- Ông cho biết căn cứ pháp lý để ban hành QĐ 643 ngày 19 tháng 5 năm 2013 về việc cấp đất cho ông Hoàng Văn Tuấn là gì?
- Đất được cấp cho ông Hoàng Văn Tuấn có đang tranh chấp hay không?
- Ông cho biết thẩm quyền cấp đất dành cho hộ gia đình là của ai?
- Chủ tịch UBND cấp huyện có thẩm quyền cấp đất cho hộ gia đình hay không?
- Giấy chứng nhận số 94/CN ngày 01/7/1992 là cấp nhà hay cấp đất cho ông Hoàng Văn Ngọc.
- Ông cho biết nếu người đã qua đời không để lại di chúc, thì tài sản được phân chia theo quy định của pháp luật là đúng hay sai?
- Nếu nhiều người đồng thừa kế cùng ủy quyền cho một người thừa kế, thì phải có xác nhận của tất cả các người đồng thừa kế là đúng hay sai?

Hỏi người liên quan:
- Ông cho biết, đất ông đang sử dụng có nguồn gốc từ năm 1992 đúng hay sai?
- Đất này do nông trường Thanh Khê cấp cho ông theo diện kinh tế mới đúng hay sai?
- Vậy đất ông đang sử dụng là do nông trường Thanh Khê cấp cho cha ông là Hoàng Văn Ngọc theo diện kinh tế mới là đúng hay sai?
- Khi tiến hành xin cấp GCNQSDD với cơ quan Nhà nước, đất ông đang sử dụng có tranh chấp với ai hay không?
- Ông cho biết cha ông và bà nội của ông qua đời vào năm nào?
- Trước khi qua đời, cha ông có để lại di chúc hay không?
- Ông có bao nhiêu anh chị em và mẹ ông hiện đang ở đâu?
- Khi đứng tên nhận thừa kế, ông có được các anh chị em và mẹ ông cùng ký xác nhận để ông được nhận toàn bộ thừa kế hay không?
- Bà nội của ông là bà Lê Thị Khuyên có ký xác nhận để ông được nhận toàn bộ thừa kế hay không?
- Trước năm 1992 bà Ngoan sinh sống tại đâu? Với ai?
- Trước năm 1992, ông nội của ông là ông Hoàng Văn Bảy có được nông trường Thanh Khê cấp đất theo diện kinh tế mới hay không?
- Đất ông đang sử dụng có phải nguồn gốc do nông trường Thanh Khê cấp cho ông nội của ông hay không?

Hỏi người khởi kiện:
- Bà Thanh cho biết lý do thực hiện đại diện ủy quyền cho bà Hoàng Thị Ngoan?
- Bà Thanh cho biết nguồn gốc đất được cấp cho ông Hoàng Văn Tuấn theo QĐ 643 trên đây là từ đâu mà có?
- Bà biết sự việc sổ hộ khẩu tại căn nhà số 5B/33 ấp 9, xã Thanh Tảo, huyện Bình Đà, TP. H không có tên mẹ bà là Lê Thị Khuyên và em bà là Hoàng Thị Ngoan khi nào?
- Khi biết sự việc trên, bà đã làm gì?
- Trước ngày 19 tháng 5 năm 2013, ấp 9 và UBND xã Thanh Tảo có tổ chức họp mặt các bên để giải quyết tranh chấp đất tại căn nhà 5B/33 trên đây không?
- Khi quyết định khởi kiện ra Tòa, nguyện vọng của bà đối với thửa đất 5B/33 trên đây là gì?

1.2 Bài luận cứ
Kính thưa Hội đồng xét xử, thưa vị đại diện Viện kiểm sát, vị đại diện UBND huyện Bình Đà cùng luật sư đồng nghiệp và tất cả mọi người đang có mặt trong khán phòng ngày hôm nay, tôi là Nguyễn A – luật sư thuộc VPLS A., Đoàn luật sư TP. H.

Hôm nay, tôi có mặt trong phiên tòa này vơi tư cách là người bảo vệ cho bà Hoàng Thị Ngoan – người có quyền và lợi ích hợp pháp bị ảnh hưởng từ QĐ 643/QĐ-UB do UBND huyện Bình Đà ban hành ngày 19 tháng 5 năm 2013 cấp GCNQSDĐ cho ông Hoàng Văn Tuấn. Bà Ngoan đã có giấy ủy quyền cho bà Hoàng Thị Thanh – chị ruột, thay mặt bà tham gia phiên Tòa hôm nay.

Dựa trên hồ sơ vụ án, quá trình thẩm vấn công khai tại phiên Tòa, tôi cho rằng có đầy đủ căn cứ pháp lý để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hoàng Thị Ngoan và tuyên hủy toàn bộ QĐ 643 trên đây. Sau đây tôi xin trình bày các căn cứ pháp lý này:

Thứ nhất, QĐ 643/QĐ-UB ngày 19/5/2013 được ban hành sai thẩm quyền.
Khoản 2 Điều 52 Luật Đất đai 2003, quy định về thẩm quyền cấp GCNQSDĐ đối với hộ gia đình như sau:

“2. Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở.”

Đối chiếu với QĐ 643, phần xác định thẩm quyền ban hành trong quyết định đã thể hiện người ký ban hành là Phó Chủ tịch ký thay Chủ tịch UBND huyện Bình Đà. Như vậy, căn cứ vào Khoản 2 Điều 52 LĐĐ 2003, QĐ 643/QĐ-UB ngày 19/5/2013 đã ban hành sai về mặt thẳm quyền.

Thứ hai, QĐ 643/QĐ-UB ngày 19/5/2013 được ban hành trái với trình tự cấp GCNQSDĐ theo quy định của pháp luật.

Ngày 19/5/2013, ông Hoàng Văn Tuấn được UBND huyện Bình Đà cấp GCNQSDĐ đối với thửa đất tại địa chỉ 5B/31 ấp 9, xã Thanh Tảo, huyện Bình Đà, TP. H. Nhưng trước đó, bà Hoàng Thị Ngoan và bà Lê Thị Khuyên đã có đơn xin giải quyết tranh chấp tại chính thửa đất này. Cụ thể ngày tháng gửi đơn như sau:

Ngày 14/5/2010, bà Hoàng Thị Ngoan gửi “Đơn yêu cầu xin xác nhận chủ quyền đất” đến chính quyền ấp 9, xã Thanh Tảo. Nội dung đơn tại bút lục 31. Đơn này đã được ông trưởng ấp 9 Phạm Tuấn Hợi ký tên xác nhận. Ngoài ra, đơn còn kèm theo sổ hộ khẩu NK4 thể hiện cha mẹ bà Ngoan và bà Ngoan là người có tên trong hộ khẩu này.

Ngày 06/02/2013, bà Lê Thị Khuyên gửi “Đơn yêu cầu” đến UBND xã Thanh Tảo với nội dung xin cấp chủ quyền đất cho con bà là Hoàng Thị Ngoan. Nội dung đơn tại bút lục 32.

Ngày 30/4/2013, bà Hoàng Thị Ngoan gửi “Đơn yêu cầu” đến UBND xã Thanh Tảo với nội dung tương tự như trên. Nội dung đơn tại bút lục 33.

Qua những đơn từ trên đây đã thể hiện thửa đất 5B/31 hiện đang có tranh chấp giữa các bên trong gia đình ông Hoàng Văn Tuấn. 

Căn cứ theo Điểm a Khoản 2 Điều 48 NĐ 181/2004/NĐ-CP hướng đẫn thi hành LĐĐ 2003 quy định về cấp GCNQSDĐ như sau:

“2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà toàn bộ thửa đất hoặc một phần thửa đất không có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần diện tích đất không có giấy tờ khi có đủ các điều kiện sau:
a) Đất không có tranh chấp;”

Như vậy, vì thửa đất tại địa chỉ 5B/31 ấp 5, xã Thanh Tảo, huyện Bình Đà, TP. H. hiện đang có tranh chấp nên UBND huyện Bình Đà không được phép cấp GCNQSDĐ cho bất cứ ai cho đến khi tranh chấp được giải quyết xong. Do đó, QĐ 643 ngày 19/5/2013 đã được ban hành trái với trình tự cấp GCNQSDĐ theo luật định.

Thứ ba, QĐ 643/QĐ-UB ngày 19/5/2013 được ban hành dựa trên căn cứ không chính xác.

Trước tiên, QĐ 643 ban hành dựa trên tờ trình ngày 01/5/2013 của trưởng phòng TN & MT huyện Bình Đà. Nội dung tờ trình cho rằng thửa đất 5B/31 không có tranh chấp là sai so với thực tế, nội dung tranh chấp đã được trình bày ở trên.

Tiếp theo, nội dung tờ trình ghi rằng “đất do nông trường Thanh Khê quản lý cấp cho dân đi kinh tế mới, gia đình Hoàng Văn Ngọc được cấp nhà đất vào năm 1992” dựa vào GCN 94/CN ngày 01/7/1992 do nông trường Thanh Khê cấp là sai về mặt nội dung căn cứ. Tại bút lục số 19 thể hiện nội dung giấy chứng nhận, ông Hoàng Văn Ngọc là chủ hộ căn nhà số 8 dãy T40 lô 7 (nay là địa chỉ 5B/31) chỉ được cấp ngôi nhà vách lá, không thể hiện nội dung ông Ngọc được cấp đất tại địa chỉ này. Do đó, căn cứ viện dẫn của Trưởng phòng TN & MT huyện Bình Đà là sai về mặt thực tế.

Thứ tư, QĐ 643/QĐ-UB ngày 19/5/2013 được ban hành không đúng theo quy định về thừa kế.

Ông Ngọc qua đời ngày 16/5/2010, mẹ ông là bà Lê Thị Khuyên qua đời sau đó 3 năm vào ngày 02/4/2013. Trước khi mất, ông Ngọc không để lại di chúc, do đó toàn bộ tài sản của ông được chia theo pháp luật.

Điểm a Khoản 1 Điều 676 BLDS 2005 quy định về người thừa kế theo pháp luật như sau:

“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;”

Căn cứ vào lời khai của bà Hoàng Thị Thanh tại bút lục 59 và lời trình bày của ông Tuấn tại phiên Tòa hôm nay, ông Ngọc có tất cả 6 người con và vợ ông hiện nay vẫn còn sống, cùng với tại thời điểm ông Ngọc qua đời, mẹ ông là bà Lê Thị Khuyên vẫn còn. Như vậy, căn cứ vào quy định của pháp luật trên đây, toàn bộ tài sản của ông phải được chia đều thành 8 phần, bao gồm: 6 người con, 1 người vợ và mẹ ruột. Nếu có sự thay đổi về phân chia thừa kế, phải có đồng ý của tất cả 8 người đồng thừa kế trên đây.

Trong nội dung giấy ủy quyền nhận thừa kế ngày 17/3/2010 cho ông Hoàng Văn Tuấn, chỉ có xác nhận của 3 người là Hoàng Văn Tăng, Hoàng Thị Vân, Hoàng Thị Lệ. Như vậy là còn thiếu 4 người đồng thừa kế. Do đó, nội dung ủy quyền này không hợp lệ, trái với quy định của pháp luật, dẫn đến việc QĐ 643/QĐ-UB ngày 19/5/2013 cũng được ban hành trái pháp luật.

Kính thưa HĐXX, dựa vào những phân tích ở trên cùng với các cơ sở pháp lý được viện dẫn, căn cứ vào Điểm b Khoản 2 Điều 163 Luật TTHC 2010, tôi kính đề nghị HĐXX chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Hoàng Thị Ngoan, tuyên hủy toàn bộ Quyết định 643/QĐ-UB ngày 19/5/2013 do Chủ tịch UBND huyện Bình Đà ban hành.

Trên đây là toàn bộ quan điểm trình bày của tôi, kính mong HĐXX xem xét. Xin trân trọng cảm ơn HĐXX và mọi người đã chú ý lắng nghe!

Đăng nhận xét

[blogger]

Author Name

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.